Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh COVID - 19 tác động đã làm đứt gãy các chuỗi cung ứng, sản xuất kinh doanh nhiều lĩnh vực, ngành nghề gặp khó khăn, trong đó có ngành công nghiệp nhựa, nhưng năm 2020 ngành nhựa vẫn duy trì khá tốt được hoạt động sản xuất, kinh doanh và tăng trưởng.
Túi nhựa là sản phẩm nhựa chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao nhất trong giai đoạn 2016 – 2020. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng bình quân của mặt hàng túi nhựa không cao vì trong những năm gần đây rất nhiều thị trường lớn của sản phẩm túi nhựa của Việt Nam như Nhật Bản và một số thị trường EU như Hà Lan, Đức đều hạn chế hoặc cấm sử dụng sản phẩm túi nhựa dùng một lần, khó phân hủy ảnh hưởng đến môi trường.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm túi nhựa trong năm 2020 đạt 910 triệu USD, tăng 46,3% so với năm 2016. Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm túi nhựa chiếm 25,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa trong năm 2020, giảm 3,2 điểm phần trăm so với năm 2016.
Theo dõi tình hình xuất khẩu sản phẩm nhựa Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2021 nhận thấy, cơ cấu sản phẩm nhựa xuất khẩu của Việt Nam xuất trong 7 tháng đầu năm 2021 và 7 tháng đầu năm 2020 có sự thay đổi đáng kể. Trong nhóm cơ cấu về 5 mặt hàng sản phẩm nhựa lớn nhất, sản phẩm đồ dùng trong xây lắp thay thế cho sản phẩm nhựa công nghiệp trở thành một trong 5 sản phẩm nhựa xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2021.
Tấm, phiến, màng nhựa thay thế túi nhựa trở thành sản phẩm xuất khẩu nhiều nhất của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2021. Trong khi tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm túi nhựa giảm từ 27,7% trong 7 tháng đầu năm 2020 xuống 19,6% trong 7 tháng đầu năm 2021 thì tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm tấm, phiến màng nhựa tăng từ 19,4% trong 7 tháng đầu năm 2020 lên 20,3% trong 7 tháng đầu năm 2021.
Dịch bệnh COVID-19 đã làm bộc lộ những khó khăn khi cung ứng các sản phẩm nhựa bị gián đoạn, không kịp thời do mạng lưới chuỗi cung ứng trải rộng toàn cầu cũng như nhiều chuỗi cung ứng quá phụ thuộc vào các trung tâm sản xuất và các thị trường lớn, nhất là Trung Quốc. Bên cạnh việc tối ưu hóa sản xuất và chi phí, việc dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng còn nhằm để phân tán và giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc ngày càng quyết liệt, xu hướng dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng toàn cầu đang thể hiện mạnh mẽ, đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức đan xen.
Có thể thấy, dịch chuyển đầu tư và chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc thực chất là một xu hướng khách quan đã diễn ra trong nhiều năm nay với động lực chính được thúc đẩy bởi mục tiêu lợi nhuận, tối ưu hóa sản xuất, chi phí và sự phát triển của khoa học - công nghệ. Dưới tác động của dịch bệnh COVID-19, xu hướng này được đẩy mạnh hơn, bởi ngoài các động lực nói trên nay có thêm động lực phân tán và giảm thiểu rủi ro./.